Bình Dương: Tăng cường công tác quản lý tài nguyên nước

Theo Sở Tài nguyên và Môi trường Bình Dương, thực hiện quản lý tài nguyên nước (TNN) trên cơ sở Luật TNN, các Nghị định, Thông tư, Quyết định và Quy định về quản lý TNN trên địa bàn tỉnh Bình Dương, công tác quản lý TNN trong thời gian qua đã gặt hái được những thành công nhất định. Trước hết là ngăn chặn kịp thời quá trình suy thoái nguồn TNN dưới đất tại khu vực phía Nam của tỉnh, từng bước kiểm soát các hoạt động gây ô nhiễm nguồn nước, đặc biệt là nước dưới đất.

 

    Chất lượng nguồn nước đang suy giảm


     Nguồn nước mặt trên địa bàn tỉnh Bình Dương khá phong phú. Với 4 sông lớn là sông Sài Gòn, sông Đồng Nai, sông Bé và sông Thị Tính, mật độ sông suối khá dày từ 0,7 km/km2 đến 0,9 km/km2 khu vực thượng nguồn và giảm xuống còn 0,4 km/km2 đến 0,5km/km2 khu vực hạ nguồn. Ngoài nguồn nước mặt từ các sông, suối, Bình Dương còn có một trữ lượng nước dồi dào từ các hồ chứa trên thượng nguồn của các sông. Tổng lượng nước mặt có thể khai thác từ các sông lớn và các hồ chứa khoảng 27,5 tỷ m3/năm, trong đó, tổng lượng nước trên các sông khoảng 26,4 tỷ m3/năm và tổng lượng nước trên các hồ khoảng 1,1 tỷ m3/năm.


     Theo kết quả quan trắc của Sở Tài nguyên và Môi trường, chất lượng nguồn nước mặt trên địa bàn tỉnh hiện nay đang có dấu hiệu suy giảm dần theo thời gian; chất lượng nước sông Sài Gòn, sông Thị Tính đang có dấu hiệu ô nhiễm và thay đổi theo quy luật: chất lượng nước giảm dần từ thượng nguồn xuống hạ nguồn; chất lượng nước trên dòng chính tốt hơn chất lượng nước trên các kênh rạch nhánh; chất lượng nước sông Đồng Nai và sông Bé tương đối tốt và ổn định trên dòng chính, tuy nhiên chất lượng trên các kênh rạch nhánh cũng bị ô nhiễm.


     Nước dưới đất trên địa bàn tỉnh Bình Dương tồn tại trong 06 tầng chứa nước, phân bố từ độ sâu từ 20 đến trên 100m. Tùy thuộc vào từng vị trí mà số tầng chứa nước khác nhau, trữ lượng và chất lượng nước cũng khác nhau.  Tùy thuộc vào đặc điểm phân bố, diện lộ, khả năng tiếp nhận nguồn cung cấp mà trữ lượng tiềm năng nước dưới đất của các tầng chứa nước dưới đất khác nhau và thay đổi từ 193.000 m3/ngày đến 662.000 m3/ngày, tổng trữ lượng tiềm năng nước dưới đất khoảng 2.180.000 m3/ngày đêm, tương đương  khoảng 797 triệu m3/năm.


     Qua kết quả quan trắc nhiều năm của Sở Tài nguyên và Môi trường cho thấy, phần lớn chất lượng nước dưới đất tốt, các chỉ số đều nằm trong giới hạn cho phép. Ngoại trừ khu vực UBND phường Vĩnh Phú, thị xã Thuận An thì nước dưới đất của các tầng đều bị nhiễm mặn (hàm lượng cl- >250mg/l). Chất lượng nước dưới đất các tầng chứa nước nằm sâu có chất lượng tốt hơn những tầng chứa nước nằm nông. Hàm lượng một số chỉ tiêu như NO3-, NH4+ hay cl- có dấu hiệu gia tăng trong nước thuộc tầng nông, một số vị trí đã vượt ngưỡng giới hạn cho phép như: An Phú, Thuận Giao (Thuận An), An Tây (Bến Cát), KCN Sóng Thần (Dĩ An).


     Theo kết quả thống kê từ các trạm cấp nước phục vụ cung cấp nước sạch, phục vụ cho tưới tiêu và phục vụ cho sản xuất công nghiệp thì tổng lượng nước mặt đang được khai thác, sử dụng hiện nay khoảng 590.300 m3/ngày đêm, tương đương 215 triệu m3/năm. Bên cạnh đó, hầu hết các hộ gia đình và doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh Bình Dương đều có giếng khoan khai thác, sử dụng nước dưới đất phục vụ cho các nhu cầu sử dụng khác nhau. Theo kết quả điều tra năm 2009 cho thấy trên địa bàn tỉnh có khoảng 186.400 giếng khoan bao gồm cả giếng khoan hộ gia đình và giếng khoan của doanh nghiệp với tổng lượng nước khai thác là 361.600 m3/ngày tương đương 132 triệu m3/năm. Tổng lượng nước thải đang xả vào nguồn nước mặt khoảng 285.755 m3/ngày đêm, tương đương 129,4 triệu m3/năm.


     Lãnh đạo Sở Tài nguyên và Môi trường nhận định, nguồn nước mặt trên địa bàn tỉnh khá phong phú về trữ lượng, tuy nhiên chưa được khai thác tối đa và cũng chưa có giải pháp phân bổ, khai thác sử dụng, bảo vệ và phòng chống tác hại do nước gây ra. Chất lượng nguồn nước đang có nguy cơ ô nhiễm do phải tiếp nhận một lượng lớn nước thải với và các chất thải khác từ hai bên lưu vực đổ vào. Nguồn nước dưới đất đang được khai thác với lưu lượng lớn và không đồng đều mà tập trung chủ yêu ở các huyện, thị phía Nam tỉnh. Điều này đã dẫn đến nguy cơ cạn kiệt, ô nhiễm, xâm nhập mặn nước dưới đất. Ngoài ra, chất lượng nước dưới đất tầng nông tại hầu hết các khu vực phát triển công nghiệp đều có dấu hiệu ô nhiễm.


     Nâng cao hiệu quả quản lý


    Để quản lý tốt hơn các hoạt động về TNN, Bình Dương đã ban hành kịp thời các văn bản như: Quy định về quản lý TNN trên địa bàn tỉnh; Quy định về vùng cấm, vùng hạn chế khai thác nước dưới đất khu vực phía Nam của tỉnh…; thực hiện thường xuyên và đa dạng công tác tuyên truyền phổ biến quy định của pháp luật về TNN để các doanh nghiệp và người dân biết và thực hiện. Công tác điều tra cơ bản về TNN cũng như quan trắc động thái nước mặt, nước dưới đất ngày càng được hoàn thiện qua đó có cơ sở khoa học phục vụ cho công tác quản lý TNN; công tác điều tra, tuyên truyền động viên người dân cũng như các doanh nghiệp thường xuyên trám lấp giếng hư hỏng, không sử dụng đúng theo quy định giúp giảm bớt các nguyên nhân gây ô nhiễm nguồn nước dưới đất; công tác thẩm định tham mưu cấp phép khai thác TNN, xả nước thải vào nguồn nước được tăng cường vì thế từ năm 2003 đến nay đã cấp được khoảng 1.500 giấy phép các loại; công tác thanh kiểm tra cũng được tăng cường qua đó nhắc nhở, hướng dẫn các doanh nghiệp ngày càng thực hiện nghiêm chỉnh các quy định về TNN.


     Lãnh đạo Sở tài nguyên và Môi trường cho biết, trong thời gian tới, Sở sẽ Tăng cường công tác cải cách thể chế thể hiện bằng việc nâng cao năng lực tham mưu ban hành các văn bản quản lý TNN; rà soát, lựa chọn những thủ tục hành chính còn rườm rà, phức tạp đề nghị Trung ương bỏ hoặc đơn giản hóa; đồng thời phổ biến, tuyên truyền để người dân và doanh nghiệp thực hiện; tăng cường nguồn nhân lực trong hoạt động TNN đặc biệt là cấp huyện và cấp xã.


     Đồng thời, xây dựng và triển khai thực hiện Quy hoạch TNN; tham gia xây dựng và áp dụng quy trình vận hành liên hồ chứa  đảm bảo điều hòa lưu lượng nước giữa các mùa, hạn chế tình trạng ngập lụt vào mùa mưa, thiếu nước vào mùa khô; tăng cường công tác kiểm tra, cấp phép và hậu kiểm sau cấp phép khai thác sử dụng TNN và xả nước thải vào nguồn nước; xây dựng và triển khai các chính sách về thuế TNN theo hướng tăng mức thu thuế TNN để hạn chế tình trạng khai thác nước dưới đất tràn lan; xã hội hóa các mô hình cấp nước tập trung nhằm đảm bảo tăng tính cạnh tranh; tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin, xây dựng hoàn chỉnh cơ sở dữ liệu về TNN.
 

 
Nguồn: stnmt.binhduong.gov.vn
Sưu tầm: Văn Phát - P.KTSX

zalo

Đặt hàng online

zalo